Thất nghiệp là gì? Trợ cấp thất nghiệp và chính sách hỗ trợ
Thất nghiệp là gì? Trợ cấp thất nghiệp và chính sách hỗ trợ
Các chính sách hỗ trợ thất nghiệp cho người lao động
Người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp và bị chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc sẽ được hưởng các quyền lợi nếu đáp ứng điều kiện theo Điều 42 Luật Việc làm 2013. Các quyền lợi bao gồm trợ cấp thất nghiệp, tư vấn và giới thiệu việc làm mới, cũng như hỗ trợ học nghề để nâng cao kỹ năng.
Trợ cấp thất nghiệp là khoản hỗ trợ tài chính nhằm giúp người lao động trang trải chi phí sinh hoạt trong thời gian tìm kiếm việc làm. Khoản trợ cấp này được chi trả từ Quỹ BHTN nếu người lao động đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Mức trợ cấp được tính dựa trên mức lương trung bình đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc và thời gian đã đóng BHTN. Số tiền nhận được càng cao nếu thời gian đóng bảo hiểm dài hơn và mức đóng lớn hơn.
Người lao động thất nghiệp có thể tìm đến trung tâm dịch vụ việc làm tại địa phương để nhận tư vấn nghề nghiệp và giới thiệu việc làm. Đây là đơn vị thuộc cơ quan nhà nước do Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức nhằm kết nối người lao động với các doanh nghiệp thông qua các phiên giao dịch việc làm, thông tin về thị trường lao động, và nhu cầu tuyển dụng. Ngoài ra, có thể sử dụng các kênh tìm việc như:
Nhà nước có chính sách trợ cấp và hỗ trợ đa dạng nhằm giúp người lao động duy trì cuộc sống và tìm việc làm mới nhanh chóng. Việc tận dụng các nguồn hỗ trợ giúp người lao động sớm tái hòa nhập thị trường và duy trì ổn định cuộc sống.
Trên đây là chia sẻ từ iCare về các thông tin liên quan thất nghiệp. Hy vọng rằng những thông tin này sẽ hữu ích cho người lao động, giúp họ hiểu rõ về các chính sách hỗ trợ và quyền lợi trong quá trình nhận trợ cấp thất nghiệp. Với sự trợ giúp từ xã hội và các cơ chế bảo vệ người lao động, hy vọng những ai đang đối diện với tình trạng mất việc sẽ có thể nhận được sự hỗ trợ cần thiết, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống và tìm được công việc phù hợp với năng lực và mong muốn.
Tỉnh Bắc Giang xác định ngành nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, vì vậy địa phương đã có nhiều giải pháp thúc đẩy lĩnh vực này phát triển theo hướng chất lượng cao, bền vững; trong đó phải kể đến việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách "tiếp sức". Được biết, từ đầu nhiệm kỳ 2021-2026 đến nay, HĐND tỉnh ban hành 8 nghị quyết quy phạm pháp luật giúp tăng nguồn lực hỗ trợ, tháo gỡ những nút thắt trong sản xuất nông nghiệp. Nhiều nghị quyết đã đi vào thực tiễn, phát huy hiệu quả.
Nhiều sản phẩm OCOP của huyện Hiệp Hòa được hỗ trợ để phát triển.
Đơn cử như Nghị quyết số 21/2021/NQ-HĐND ngày 10/8/2021 của HĐND tỉnh sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã (HTX) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (gọi tắt là Nghị quyết số 21) ban hành kèm theo Nghị quyết số 24/2018/NQ-HĐND ngày 07/12/2018 của HĐND tỉnh. Theo đó, Nghị quyết số 21 hỗ trợ HTX nhiều nội dung như tập trung đất đai, đào tạo nguồn nhân lực, tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm… Kết quả đến nay, hơn 70 lượt HTX được hỗ trợ với tổng kinh phí hơn 5 tỷ đồng từ ngân sách nhà nước.
Tìm hiểu tại HTX Sản xuất nông nghiệp An Thịnh, xã Ngọc Thiện (Tân Yên), sau khảo sát, đơn vị đáp ứng đủ điều kiện theo Nghị quyết số 21 nên đầu năm 2023 được hỗ trợ 100 triệu đồng để thuê đất thực hiện dự án sản xuất gạo thơm Ngọc Thiện - sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao. Bà Nguyễn Thị Thơm, Giám đốc HTX cho hay, nhờ chính sách hỗ trợ nên HTX mở rộng diện tích cấy lúa từ hơn 6 ha lên 10 ha; góp phần hình thành vùng nguyên liệu rộng lớn đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao thu nhập cho xã viên.
Theo Nghị quyết số 14/2023/NQ-HĐND ngày 5/4/2023 của HĐND tỉnh quy định mức chi hỗ trợ đào tạo đối với thành viên, người lao động của tổ chức kinh tế tập thể và hỗ trợ đưa lao động trẻ về làm việc tại tổ chức kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm 2025, 11 HTX tại các huyện: Lạng Giang, Tân Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa, Yên Thế và thị xã Việt Yên được hỗ trợ tổng kinh phí hơn 422 triệu đồng để chi trả chế độ cho 13 lao động trẻ về làm việc. Thời gian hỗ trợ trong 6 tháng cuối năm 2023. Phát huy thế mạnh, những lao động trẻ này đã giúp các HTX tìm kiếm, mở rộng thị trường; xây dựng thêm các sản phẩm mới; phụ trách khá tốt hoạt động kế toán, kiểm toán…
Ngoài ra, HĐND tỉnh còn ban hành 15 nghị quyết cá biệt về chuyển loại rừng và chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác. Nhờ vậy từ năm 2021 đến nay, toàn tỉnh chuyển đổi hơn 450 ha rừng sang mục đích khác để thực hiện 96 dự án đầu tư công (làm đường giao thông, xây dựng trường học, xây dựng khu dân cư, cải tạo đường dây điện, khai thác đất san lấp…). Do đó, mạng lưới giao thông đường bộ của địa phương ngày càng hoàn thiện; nhiều công trình, dự án bảo đảm nguyên vật liệu, đất san lấp mặt bằng; quỹ đất được mở rộng để thu hút các dự án đầu tư và phát triển KT-XH.
Ông Lê Bá Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho hay, quá trình triển khai, thực hiện, nhiều nghị quyết đã phát huy tính hiệu quả, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan (thời tiết, dịch bệnh, thị trường...); diện tích đất canh tác còn manh mún, việc tích tụ đất đai gặp nhiều khó khăn; chưa có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, khoa học kỹ thuật hiện đại đầu tư vào lĩnh vực này. Mặt khác, T.Ư thay đổi các quy định, hướng dẫn liên quan nên địa phương khó áp dụng trong thực tiễn. Đây là rào cản khiến nhiều đơn vị không đáp ứng đủ các điều kiện mà một số nghị quyết đưa ra, không được hưởng chính sách hỗ trợ.
HTX Sản xuất và tiêu thụ mỳ gạo Quế Hằng, Châu Sơn (Tân Yên) được hỗ trợ kinh phí mua sắm máy móc phục vụ sản xuất.
Để tháo gỡ khó khăn, ngành Nông nghiệp đã tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh ban hành thêm nhiều nghị quyết mới với nhiều nội dung được sửa đổi, bổ sung sát thực tiễn, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân được thụ hưởng chính sách. Nghị quyết số 26/2023/NQ-HĐND ngày 14/7/2023 ban hành quy định chính sách hỗ trợ phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2023-2030 là một trong số đó. Theo chính sách mới này, trong 6 tháng cuối năm 2023, hàng chục nghìn hộ dân trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ kinh phí mua thóc giống (20 nghìn đồng/kg). Năm 2024, HĐND tỉnh tiếp tục phân bổ hơn 58 tỷ đồng để hỗ trợ các tổ chức, cá nhân các nội dung được quy định trong nghị quyết (lãi suất vay vốn tín dụng; tập trung đất đai; cơ giới hóa trong nông nghiệp, thủy sản; hỗ trợ giống lúa thuần chất lượng; cấp giấy chứng nhận sản phẩm nông nghiệp và thủy sản đạt tiêu chuẩn VietGAP, VietGAHP, GlobalGAP, GACP-WHO, hữu cơ; hỗ trợ vùng sản xuất rau hàng hóa tập trung…)
Nghị quyết số 25/2023/NQ-HĐND ngày 14/7/2023 quy định nội dung và mức chi hỗ trợ sản xuất giống phục vụ phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023-2030; Nghị quyết số 67/2023/NQ-HĐND ngày 13/12/2023 quy định chính sách khuyến khích phát triển sản phẩm OCOP trên địa bàn giai đoạn 2024-2025… cũng là các chính sách mới, đang được các cấp, ngành, địa phương quan tâm triển khai.
Được biết, ngay từ bước đầu, Thường trực HĐND tỉnh khóa XIX đã tổ chức các hội nghị tiếp xúc cử tri chuyên đề tại nhiều địa phương để khảo sát, xin ý kiến tham gia đóng góp của người dân, doanh nghiệp, HTX trước khi ban hành chính sách. Những nghị quyết sau khi ban hành mang tính đồng bộ, bài bản; được các cấp, ngành, địa phương chỉ đạo thực hiện quyết liệt; bảo đảm tính công khai, minh bạch, đúng quy định, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Tại hội nghị đối thoại với Chủ tịch Hội Nông dân cơ sở mới đây, đồng chí Lê Thị Thu Hồng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh nhấn mạnh, những năm gần đây, tỉnh đẩy mạnh phát triển công nghiệp nhưng nông nghiệp vẫn là trụ đỡ của nền kinh tế. Để “tiếp sức” cho hoạt động sản xuất, nhất là từ khi xảy ra đại dịch Covid-19, HĐND tỉnh đã ban hành một loạt chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhiều nhất từ trước đến nay. Nhờ vậy, sản xuất nông nghiệp của tỉnh nhà đã có bước phát triển nhanh và toàn diện, cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, trở thành điểm sáng của cả nước.
Bốn năm liên tục, tốc độ tăng trưởng GRDP nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng trưởng dương, đạt tỷ lệ cao (năm 2020: 6,7%; năm 2021: 4,28%; năm 2022: 2,0%; năm 2023: 2,63%). Bên cạnh cơ chế, chính sách hỗ trợ, mỗi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp cũng cần nỗ lực khắc phục khó khăn; quan tâm ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số; chủ động liên kết, chế biến sâu nâng giá trị sản phẩm, tăng thu nhập.
Bài, ảnh: Mạc Yến/ Theo báo Bắc Giang
Bộ Công Thương vừa hoàn tất dự thảo chính sách hỗ trợ nông dân mua máy móc, thiết bị vật tư thiết bị sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là một trong nhiều chính sách cụ thể hóa gói giải pháp kích cầu của Chính phủ, đồng thời góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Theo dự thảo chính sách hỗ trợ nông dân mua máy móc, thiết bị vật tư thiết bị sản xuất và tiêu dùng thì người nông dân sẽ được vay tiền với lãi suất 0% đối với các máy móc, thiết bị vật tư sản xuất nông nghiệp và được hỗ trợ 4% lãi suất đối với một số mặt hàng tiêu dùng. Thời gian cho vay tối đa dự kiến là 2 năm. Điểm đặc biệt của chính sách này là nông dân khi vay sẽ không phải thế chấp tài sản. Như vậy những hộ dân, đa số là hộ dân nghèo không có tài sản đảm bảo để vay thông thường như trước đây đều có thể vay vốn khi chính sách mới này ra đời, giúp cho ngay cả nông dân nghèo có cơ hội đầu tư sản xuất và vươn lên.
Việc ban hành chính sách này cùng nhiều giải pháp kích cầu nông thôn trước đó triển khai nhanh và kịp thời sẽ có hiệu ứng tích cực trong bối cảnh hiện nay. Thứ nhất: sẽ đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa sản xuất trong nước, từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành công nghiệp duy trì sản xuất và đảm bảo việc làm.
Thứ hai: hỗ trợ lãi suất giúp người nông dân có điều kiện thuận lợi hơn mua sắm trang thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp, từ đó kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển. Theo Viện Chính sách và chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, kích cầu vào khu vực nông nghiệp sẽ tạo ra tác động mạnh nhất đến tăng trưởng GDP cả nước tăng thêm 1,2%.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách sao cho hiệu quả, đúng và trúng mục tiêu như đề ra: Đó là khuyến khích người nông dân mua trang thiết bị, vật tư sản xuất nông nghiệp trong nước; chất lượng, giá cả sản phẩm phù hợp, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng chính sách này để đưa hàng chất lượng thấp và tăng giá bất hợp lý.
Ông Hoàng Thọ Xuân, Vụ trưởng vụ Chính sách thị trường trong nước, Bộ Công Thương, cho biết: Nói sản xuất trong nước nhưng hàng cũng fải đảm bảo chất lượng và giá bán phải nằm trong sự kiểm soát của Nhà nước, tức là fải đăng ký giá, niêm yết giá, bán theo giá niêm yết và phải chấp hành đầy đủ quy định của pháp lệnh giá. Thứ nữa là giao trách nhiệm rất rõ và có sự phối hợp cao của các ngành. Ví dụ về danh mục hàng hóa cho nông dân cũng cần nghiên cứu kỹ và Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, UBND các tỉnh chịu trách nhiệm soạn thảo. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm kiểm tra các doanh nghiệp.
Một vấn đề nữa đặt ra khi chính sách này đi vào cuộc sống là làm sao để hỗ trợ lãi suất mua những mặt hàng đúng nhu cầu của mỗi người dân. Bởi mỗi vùng miền, tỉnh khu vực, nhu cầu sử dụng trang thiết bị vật tư và tiêu dùng khác nhau. Nếu như không có phân tích, điều tra kỹ lưỡng nhu cầu của từng vùng, từng khu vực sẽ dễ dẫn tới chính sách đã có mà nông dân lại không mặn mà. Đây cũng là lưu ý đối với cơ quan chức năng và các địa phương để thực hiện hiểu quả chính sách.
Khi dự thảo chính sách này được thông qua và đi vào cuộc sống thì đây chính là một bước cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị về các giải pháp kích cầu, nhất là lĩnh vực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Trong đó có việc tăng cường hỗ trợ nông dân thông qua việc cấp các khoản tín dụng ưu đãi để mua sắm máy móc, thiết bị cho sản xuất; đồng thời qua chính sách này sẽ góp phần đẩy mạnh phát triển cơ khí trong nước để trang bị cho nông nghiệp./.
Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới, có diện tích tự nhiên trên 9.000 km2; trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm 58%. Tỉnh có gần 47 vạn người, trên 82% người dân sinh sống ở khu vực nông thôn. Những năm qua, Lai Châu luôn xác định nông nghiệp là lĩnh vực trọng điểm và đã tập trung tuyên truyền, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nông nghiệp.
Đồng thời, tỉnh cũng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp giúp bà con nhân dân trong tỉnh có điều kiện để chuyển đổi các giống cây trồng, vật nuôi phù hợp đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của tỉnh Lai Châu, năm 2021 Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Tam Đường đã triển khai hỗ trợ chuồng trại chăn nuôi cho người dân trên địa bàn huyện. Theo đó, huyện có 136 hộ nhận được hỗ trợ; trong đó 17 hộ chăn nuôi tập trung với quy mô từ 5 đến 125 con gia súc và 119 nông hộ nhận được hỗ trợ để làm chuồng trại với số tiền hỗ trợ gần 1,5 tỷ đồng. Từ chính sách hỗ trợ này đã giúp các hộ chăn nuôi từ bỏ thói quen thả rông gia súc chuyển sang phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hóa, giảm ô nhiễm môi trường và tăng thu nhập.
Tiêu biểu như gia đình anh Nguyễn Văn Long ở bản Tiên Bình, thị trấn Tam Đường, huyện Tam Đường trước đây chăn nuôi nhỏ lẻ, hiệu quả kinh tế mang lại không cao. Từ khi được Nhà nước hỗ trợ 200 triệu đồng từ chính sách hỗ trợ chuồng trại chăn nuôi anh Long đầu tư xây dựng 2 khu chuồng trại với diện tích hơn 300 m2 có thể làm nuôi nhốt 50 con trâu trở lên. Anh Long chia sẻ, gia đình mình hiện nay có 30 con trâu, ngoài mô hình nuôi trâu thương phẩm, mình còn đầu tư phát triển mô hình trồng cây ăn quả như bưởi, mít, mắc ca. Trừ chi phí mỗi năm gia đình thu về từ 700- 800 triệu đồng, kinh tế khá hơn, con cái được ăn học đầy đủ.
Năm 2020, thực hiện Nghị quyết số 13/2019/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Lai Châu về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và thụ sản phẩm nông nghiệp, Công ty cổ phần Beefoods Lai Châu đã liên kết với huyện Tam Đường triển khai thực hiện mô hình trồng cây chanh leo với diện tích hơn 17 ha, trồng tại 6 xã, thị trấn của huyện Tam Đường với sản lượng khoảng 57,1 tấn và giá thu mua từ 4.000-23.000 đồng/kg. Công ty cung ứng toàn bộ giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, thu hái, bảo quản và bao tiêu sản phẩm cho bà con. Đến nay, cây chanh leo trên địa bàn huyện ngày càng được mở rộng với diện tích gần 37ha.
Những năm qua huyện Tam Đường đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, trở thành động lực để người dân thay đổi phương thức sản xuất, mạnh dạn đầu tư phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tập trung. Cụ thể như các chính sách về phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung, người dân được hỗ trợ trồng cây mắc ca, chè, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi; chính sách phát triển rừng bền vững; phát triển cây dược liệu…
Ông Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng phòng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tam Đường cho biết, để đảm bảo chính sách hỗ trợ phát huy hiệu quả, thời gian qua huyện Tam Đường đã tuyên truyền, vận động nhân dân sử dụng đúng mục đích các nguồn hỗ trợ của các chương trình, dự án, nhất là hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp.
Huyện cũng chỉ đạo Phòng Nông nghiệp huyện và các xã tổ chức họp dân, thông báo công khai các chính sách hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ, lựa chọn các hộ có điều kiện để đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ việc hỗ trợ giống, vật tư nông nghiệp không chỉ giảm bớt khó khăn cho nhiều hộ dân mà còn thay đổi nhận thức của bà con trong sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp của huyện Tam Đường đã có bước phát triển nổi bật, năm 2021 tổng diện tích gieo trồng cây lương thực đạt hơn 9.110 ha, sản lượng lương thực có hạt đạt 41.100 tấn, trồng mới gần 111 ha chè; tốc độ tăng trưởng đàn gia súc đạt 6%/năm. Từ chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp, người dân ở huyện Tam Đường đã dần thay đổi tập quán canh tác, tập trung phát triển sản xuất vươn lên thoát nghèo, góp phần xây dựng nông thôn mới của huyện.
Nhờ thực hiện hiệu quả các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp nên lĩnh vực nông nghiệp tỉnh Lai Châu có bước phát triển rõ nét. Giai đoạn 2004-2020 tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân đạt trên 22%; giá trị sản xuất ngành nông nghiệp năm 2020 đạt trên 3.200 tỷ đồng, tăng 8,5 lần so với năm 2004; hình thành và phát triển nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn như trên 8.500 ha chè, trên 13.000 ha cao su, hơn 5.000 ha mắc ca và 4.000 ha chuối... Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được đẩy mạnh với hơn 100 sản phẩm OCOP.
Đặc biệt, năm 2021, mặc dù dịch bệnh COVID-19 xảy ra, tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống, kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực của tỉnh Lai Châu, các chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế - xã hội đạt được một số kết quả quan trọng. Nổi bật là tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước đạt 5,6%, tổng sản phẩm bình quân đầu người ước đạt 44,4 triệu đồng (tăng 1,2 triệu đồng so với năm 2020). Sản xuất nông nghiệp đảm bảo mùa vụ với sản lượng lương thực có hạt vượt 0,9% kế hoạch.
Đặc biệt, tỉnh tổ chức thành công Hội nghị Xúc tiến đầu tư lĩnh vực nông nghiệp tỉnh Lai Châu năm 2021, với số vốn đầu tư dự kiến khoảng 25.000 tỷ đồng, tập trung vào các lĩnh vực trồng mắc ca khoảng 100.000 ha, trồng cây dược liệu khoảng 600 ha, trồng cây lâm nghiệp khoảng 2.000 ha; trồng dứa, chanh leo và các loại cây ăn quả khoảng 10.000 ha; nuôi 5.000 đàn ong, chăn nuôi lợn hữu cơ quy mô khoảng 10.000 con…
Để tiếp tục tạo động lực phát triển nông nghiệp, giai đoạn 2021-2025 tỉnh Lai Châu đã ban hành các nghị quyết, quyết định về quy định chính sách phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung; đề án phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung giai đoạn; phát triển rừng bền vững; quy định chính sách hỗ trợ tài chính trong chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ và hoạt động khoa học, công nghệ; quy định chính sách đặc thù khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Việc triển khai các nghị quyết, đề án, quyết định, hướng dẫn, kế hoạch của Trung ương và của tỉnh sẽ là tiền đề quan trọng để Lai Châu tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa; từng bước nâng cao thu nhập cho người dân, tạo dựng các sản phẩm, thương hiệu từ nông nghiệp.